Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng làm bánh đa nhưng chỉ có bánh đa Kẻ Sặt mới trở thành đặc sản của Hải Dương và nổi tiếng như món bánh gai hay món bánh đậu xanh Hải Dương .
Những chiếc bánh đa có màu đỏ của gấc, vị bùi của lạc, vừng, dừa và mùi thơm của gừng tươi và hương gạo mới. Khác với những loại bánh đa khác, bánh đa gấc Kẻ Sặt được cuộn tròn thành từng cuộn , nổi tiếng thơm ngon của xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, Hải Dương.
Nguyên liệu làm bánh gồm có gạo, đường, có thêm vừng, lạc và dừa thái mỏng và thêm hương vị của gừng tươi. Ngày nay người ta còn có thêm cả gấc để tạo màu đỏ hấp dẫn và lạ mắt cho chiếc bánh.
Để làm nên chiếc bánh đa đặc sản Hải Dương này, người dân nơi đây phải vô cùng khéo léo từ khâu chọn nguyên liệu đến khâu chế biến. Gạo làm cần đạt yêu cầu ngọt, tới và nhiều bột. Vừng cũng phải chọn loại vừng tốt, loại vừng tấm thơm bùi là tốt nhất. Lạc được chọn phải là loại lạc già, nhân to, mẩy để dễ thái mỏng. Dừa phải chọn loại dừa già, cùi dày thì bánh mới thơm và bùi.
Công đoạn làm bánh cũng khá phức tạp. Ngâm gạo trong nước sạch khoảng từ 1 đến 2 tiếng. Sau đó, vớt lên để ráo và cho vào cối xay. Những gia đình làm bánh lâu năm đều có cối xay bột bằng đá và xay thủ công – một trong những yếu tố chính làm nên món bánh đa đặc sản nơi đây đấy. Trong quá trình xay gạo, vừa xay vừa đổ nước vào để bột có nồng độ vừa phải, không loãng cũng không quá đặc để vắt lọc bằng vải. Đường được đun chảy và hòa với bột theo tỷ lệ nhất định để vị bánh ngọt vừa ăn. Gừng cũng vậy, giã nhỏ để vị gừng ngấm vào nước rồi hòa vào cùng bột để khi ăn, không cắn phải miếng gừng cay mà vẫn luôn cảm thấy vị cay tê tê của gừng ở đầu lưỡi. Vừng đem ngâm, xát bỏ vỏ; lạc sống được thái thật mỏng, sau đó say bỏ vỏ. Dừa thái mỏng thành từng sợi. Lạc và dừa cắt lát càng mỏng càng ngon.
Khi đã có đầy đủ nguyên liệu được chế biển tỉ mì như trên, việc tráng bánh được tiến hành. Cho vào nồi khoảng 2/3 nước so với dung tích nồi, đun đều lửa và giữ ổn định trong suốt quá trình tráng bánh. Khi nước sôi để khuôn lên miệng nồi múc một muôi bột đổ lên khuôn, dùng muôi dàn đều trên mặt khuôn (công đoạn này cũng giống như tráng bánh cuốn).
Bánh đa Kẻ Sặt, đặc biệt hơn bởi được tráng 2 lần. Lần thứ nhất rắc đều vừng, lạc, dừa lên mặt bánh. Sau đó tiếp tục múc một muỗng bột nữa đổ lên trên láng đều kín hết nhân, đậy vung lại khoảng 1-2 phút mở vung ra, lúc này bánh đã chín, dùng ống nứa dài 40-50 cm có đường kính 7-8 cm đặt vào mép bánh đa, để bánh dính vào ống nứa sau đó từ từ năn tròn vào ống nứa, đưa ống nứa đặt vào phên, lăn ống nứa ngược chiều khi cuộn bánh, chiếc bánh đa trải đều trên phên.
Phên nứa dùng để phơi bánh được đặt ra ngoài nắng; khi ướt bánh dính vào phên, lúc khô bong ra. Khi bánh khô thu bánh quay vào cót để theo từng chồng.
Để tiện cho khách mua, người làm bánh hơ qua lửa để bánh chín. Khi tráng và phơi xong, bánh có hình tròn. Tuy nhiên, khi quạt chín, bánh còn mềm và dẻo, người làm đã cắt bánh làm đôi theo hình bán nguyệt và cuộn tròn lại theo hình ống để tránh bánh bị vỡ vụn khi vận chuyển.
Trước kia, món bánh đa gia truyền này có màu vàng óng, nhưng ngày nay, hầu hết những hộ làm bánh hiện tại (chỉ còn rất ít hộ làm) cho thêm màu đỏ của gấc để bánh có màu hấp dẫn hơn chính vì vậy cái tên bánh đa Kẻ Sặt có cái tên mới là bánh đa gấc Kẻ Sặt. Khi ăn, chính vị bùi và béo của lạc vừng lẫn dừa, cùng vị cay đặc trưng của gừng khiến chiếc bánh đa gấc Kẻ Sặt đặc biệt hơn những loại bánh đa thông thường luôn gây cảm giác khô./.