Thổ Hà từng được coi một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt. Gốm Thổ Hà mang những nét đặc sắc riêng hiếm có: độ sành cao, không thấm nước, tiếng kêu như chuông, màu men nâu đỏ mịn màng, ấm áp và gần gũi. Gốm có độ bền vĩnh cửu dù được chôn trong đất, ngâm trong nước. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời.
Ngày nay, dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời vẫn còn hiển hiện trong những bức tường ngõ cổ và bức tường nhà xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm, không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính. Vẫn là con đường xưa, còn đó những nếp nhà rêu phong, mái đình cong trầm mặc vắt ngang qua chiều dài lịch sử văn hóa Việt; ngôi chùa cổ kính hàng trăm năm tuổi là một trong những di tích cấp quốc gia được công nhận sớm nhất, năm 1960. Đến đây du khách chắc hẳn sẽ phải ngạc nhiên về những sáng tạo của người xưa khi đưa những chất liệu sành vào trong kiến trúc làng.
Tuy nhiên, hiện nay làng chuyển sang làm nghề bánh đa và mỳ gạo.
Thổ Hà, không chỉ có nghề gốm cổ truyền, mà còn sở hữu một quần thể di sản kiến trúc của làng cổ, trong đó có ba di tích lịch sử văn hóa được nhà nước công nhận là Đình, Chùa và Văn Chỉ, với gần hai chục tấm bia đá ghi bằng chữ nho ở cả hai mặt. Thổ Hà còn nổi tiếng với những kiến trúc cổ từ nhà cửa đến cổng làng, khu giếng cổ đều được làm bằng gạch nung và sành đắp nổi không tráng men.
Cổng làng Thổ Hà có kiến trúc đẹp, bề thế và cổ kính, được làm từ đôi bàn tay của những nghệ nhân dân gian của làng, thể hiện sự thịnh vượng của nghề gốm xưa kia. Đây là một trong những cổng đẹp nhất ở vùng hạ và trung lưu sông Cầu.
Cổng nằm ở ngay đầu làng phía trước đình, bên tả là hồ nước rộng, bên hữu có cây đa hàng trăm năm tuổi, đây là những nét rất đặc trưng mang đậm dấu ấn văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ với hình ảnh cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình cùng những vòm cổng, những khu miếu thờ, từ chỉ, đình, chùa… Ngoài ra, trong làng vẫn còn lưu giữ được một số ngôi nhà cổ xây dựng cách đây trên 100 năm, tiêu biểu cho các ngôi nhà cổ thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông. Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng. Ðình có quy mô lớn, kết cấu kiến trúc tương đối hoàn chỉnh. Các mảng chạm khắc thể hiện phong cách thời Lê rõ nét, độc đáo. Ðề tài thể hiện trên các cấu kiện kiến trúc chủ yếu là “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Con rồng ở đình Thổ Hà được chạm ở nhiều bộ phận: đầu dư, bẩy, kẻ, cốn, ván nong, câu đầu với các đề tài rồng ổ, rồng mẹ cõng rồng con, rồng và thiếu nữ… Bởi vậy, không ngẫu nhiên mà các nhà khoa học lại xem đình Thổ Hà là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam. Năm 1962, đình Thổ Hà đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc – nghệ thuật cấp quốc gia. Trong đình có ba tấm bia lớn là: Thủy tạo đình miếu bi, Cung sao sự tích thánh, Bia sao sắc phong. Có lẽ một trong những điều thu hút sự chú ý của du khách chính là nội dung được ghi ở tấm bia Thủy tạo đình miếu bi. Tại đây, mô tả khá kỹ địa hình núi sông của làng Thổ Hà: phía Đông đẹp đẽ như rồng quay về chốn tổ; phía Tây hùng vĩ như dáng hổ ngồi chầu; phía Nam có núi Hằng Lĩnh và dòng sông Nguyệt Đức, đó là sách trời đã định; phía Bắc có ngọn núi Lát, hun đúc khí thiêng cho dải đất Thổ Hà. Từ địa thế này làng đã sản sinh ra những bậc anh tài, giỏi dang, đỗ đạt, làm quan văn võ, áo đỏ tía rực rỡ chốn triều đình. Cũng từ mảnh đất này, nghề bán buôn, làm ăn sinh sôi, phát triển nhiều người giàu có, nhà nào cũng có nghề gốm phát đạt.
Chùa Thổ Hà có tên là “Đoan Minh Tự”. Niên biểu chính thức của chùa chưa được tìm thấy. Căn cứ dòng chữ ghi trên đôi rồng đá ở cửa chùa thì năm Giáp Thân 1580 đời nhà Mạc mua rồng đá, năm Canh Thân 1610 chùa được tu sửa lại. Như vậy, chùa phải được xây dựng từ trước đó.
Chùa xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, có quy mô lớn, bao gồm cổng tam quan, gác chuông và tiền đường. Tam quan chùa nằm sát sau đình. Gác chuông và tiền đường được chạm trổ lộng lẫy với các đề tài rồng mây, hoa lá. Thời gian kháng chiến, quả chuông to trong gác chuông được lấy để đúc vũ khí. Trong chùa có tượng Phật tổ Như Lai to lớn và tượng Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen.
Từ tòa Tam Bảo theo hai dãy hành lang vào tới Động Tiên, là một công trình kiến trúc hiếm có. Động tiên đã ghi lại đầy đủ hình ảnh Thích Ca từ lúc mới sinh ra, lúc trưởng thành và khi lìa bỏ kinh thành vào động tu hành đến đắc đạo. Tiếp theo đi qua sân rộng tới nhà Tổ, nơi đây thờ Sư Tổ và các vị sư đã trụ trì chùa. Chùa Thổ Hà được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa năm 1996.
Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ 17 (theo tấm bia còn lưu giữ thì được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 5, năm 1680) thờ Khổng Tử, Tứ Phối, 72 vị tiên hiền… Nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đều đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính. Văn chỉ làng Thổ Hà được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa ngày 28/2/1999.
Vẻ đẹp cổ kính, thuần Việt, sự hồn hậu, mến khách của người dân với nghề làm gốm cổ truyền, làng Thổ Hà là một địa chỉ du lịch hấp dẫn với du khách và các nhà nghiên cứu văn hóa./.